Hòa thượng Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung,
vị “Sư – Thầy” tài đức vẹn toàn
vị “Sư – Thầy” tài đức vẹn toàn
Sinh ra, lớn lên, và thành tựu trong cuộc
đời này, mỗi chúng ta đều có họ và tên khác và giống nhau do cha, mẹ, ông, bà của
hai bên nội, ngoại, đặt ra để kế thừa và tiếp nối dòng giống tâm linh và huyết
thống. Đối với vị cư sĩ, trong giờ
phút đầu tiên được khai sinh trong đạo Phật – đạo giác ngộ, từ bi, trí huệ, hòa
bình, và tỉnh thức, và trong giờ phút hiểu và tự chọn cho mình con đường đi an
lạc và vững chãi suốt cuộc đời của mình bằng cách phát nguyện và nương tựa Ba
Ngôi Quý Báu: Phật, Pháp, Tăng, và Năm Điều Đạo Đức[1] với vị Bổn Sư của mình trực
tiếp hoặc gián tiếp dạy dỗ và trao truyền giới pháp cho mình đã thọ, thì mỗi cư
sĩ chúng ta có thêm một tên đạo, đó là pháp
danh. Đối với vị xuất sĩ, ngoài
họ, tên, và pháp danh ra, mỗi vị xuất sĩ chúng ta còn có thêm pháp tự và pháp hiệu.
The Most Venerable Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung,
perfectly talented and virtuous Monk – Teacher
perfectly talented and virtuous Monk – Teacher
Born, grown up, succeeding in this life,
each of us has the same and various surnames and names named by parents and
grandparents of both maternal and paternal sides to inherit and to connect us
to our spiritual and blood lineage. In addition, a lay person, in the first minutes and hours of being registered the
birth of Buddhism – the path of enlightenment, loving-kindness, compassion,
peace, and awakening, and in the moments of understanding and choosing for
himself or herself the path leading to peacefulness and steadiness throughout
life by taking a vow and taking refuge in the Triple Gem: the Buddha, the
Dharma, the Sangha, and the Five Virtuous Trainings[2] with his or her original
Master whether directly or indirectly teaching, granting, and transmitting the
Dharma precepts he or she received, receives one more religious name, that is
to say, Dharma name. A Monastic, apart from surname, name, and
Dharma name, still receives Dharma identity, and Dharma title.
Thực vậy, khi sinh ra, lớn lên, xuất gia,
học đạo, hiểu đạo, hành đạo, hoằng đạo, hộ đạo, và ứng dụng đạo pháp vào trong
đời sống hằng ngày của mình, thì mỗi chúng ta đều có tên, họ, pháp danh, pháp tự,
và pháp hiệu khác hoặc giống nhau. Chủ đề của bài viết này là “Hòa thượng Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung, vị Sư – Thầy tài đức vẹn
toàn.” Để khai triển đề tài trên,
người viết lần lượt định nghĩa, thảo luận, và phân tích từng từ, từng cụm từ,
và toàn chủ đề trên.
Indeed, when being born, growing up,
leaving home for a monastic life, learning the Dharma, understanding the
Dharma, practicing it, preaching it, protecting it, and applying it in his or
her daily life, each of us bears the same and various names, surnames, Dharma
name, Dharma identity, and Dharma title. The title of this writing is “The Most Venerable Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung, perfectly talented and virtuous Monk –
Teacher.” To expand upon the above topic, the writer defines, discusses,
and analyzes every word, every phrase, and the above whole title in turn.
Trước tiên, Hòa thượng (Sanskrit: Upādhāya) có nghĩa là người có tài năng và đức hạnh có khả năng dung nhiếp,
duy trì, kế thừa, tiếp nối, truyền đạt, giáo dục, đào tạo, nuôi nấng, và dạy dỗ
Phật pháp cho những người Phật tử và không phải Phật tử. Hòa thượng, danh từ chung của từ Hán Việt, có nghĩa là vị trưởng
thượng, đức hạnh, đạo hạnh, gương mẫu, và tôn kính trong Sơn môn, Già lam, Tăng
đoàn, trong đạo pháp, và trong dân tộc.
First of all, the Most Venerable One (Sanskrit: Upādhāya)
means the person who has talent and virtue has the
ability to contain, uphold, inherit, connect, impart, educate, train, nourish,
and to bring up the Buddha Dharma to Buddhists and non-Buddhists. The Most Venerable One, a common noun
of Sino-Vietnamese word, means the Elder One, Virtuous One, Moral One,
Exemplary One, and Honored One at the Temple, Pagoda, in Delegation, in the Dharma
path, and in the people.
Hòa thượng họ Đinh, thế danh của ngài là
Văn Nam, pháp danh là Tâm Trí, pháp
tự là Minh Châu, và pháp hiệu là Viên Dung. Tất cả chữ “pháp” ở đây đều
có nghĩa là mạng mạch đạo pháp và dân tộc, là giáo pháp, và là lời Phật dạy. Đọc
qua tiểu sử của ngài,[3] chúng ta biết thân phụ của
ngài đã đỗ đạt tiến sĩ Hoàng Giáp lúc 21 tuổi năm 1913. Noi gương hiếu học và ảnh
hưởng giáo dục trực tiếp của người cha, Hòa thượng quyết tâm tu học và sau này
sớm trở thành một vị tài – đức vẹn toàn và sáng ngời trong mọi thời đại.
The surname of the Most
Venerable One is Đinh, whose family name is Văn Nam, his Dharma name is Tâm Trí, Dharma identity is Minh Châu, and Dharma title is Viên Dung. All the “Dharma” words here mean a life vein of the Dharma
path and the people, the Dharma, and the Buddha’s teachings. Reading his
biography,[4] we knew that his father
graduated as a second-rank doctor at the age of 21 in the year 1913. Following
his father’s studious example and emulating his father’s educational endeavors,
the Most Venerable was determined to cultivate, to learn, and to afterward
early become the perfectly and brightly talented and virtuous One in all
ages.
Tâm Trí là danh từ của hai
âm Hán Việt; Tâm có nghĩa là trái tim, là then chốt, là cốt lõi, là tấm lòng…
Theo dòng kệ của Tổ Sư Liễu Quán,[5] Tâm là sự truyền thừa và tiếp nối giữa thế hệ trước và thế hệ sau
như … Trừng, Tâm, Nguyên … Trí có nghĩa là trí tuệ (S. Prajña/ P. Paññā).
Tâm Trí
is a noun of two Sino-Vietnamese words; Tâm means heart, the key, the essence, the heart, etc.
According to the stream of Patriarch Liễu Quán,[6]’s verse, Tâm is the transmission and connection between previous
generations and next generations such as … Trừng, Tâm, Nguyên, (… Purification, Heart,
Origin…), etc.
Trí means wisdom (S. Prajña/ P. Paññā).
Vậy Tâm
Trí là pháp danh của Hòa thượng, người có tấm lòng chân thật và thiết thực
có khả năng nhìn xa trông rộng qua nhiều thế hệ và thời đại, qua nhiều khía cạnh
đặc thù khác nhau như nhà giáo dục, nhà phiên dịch Kinh điển Pali, nhà ngoại
giao Phật giáo mẫu mực, phù hợp, và tạo nhiều cảm hứng cho mọi người trong xã hội
hiện tại.
Thus, Tâm Trí is
the Dharma name of the Most Venerable One, who has his sincere and authentic
heart has the ability to be far-seeing through many generations and ages,
through specific aspects such as educator, translator of Pali Canon, Buddhist
diplomat of example, suitability, creation of much aspirations to all people in
the present society.
Minh Châu là một danh từ của hai âm Hán
Việt, danh từ riêng; Minh là một
tính từ bổ nghĩa cho danh từ Châu có
nghĩa là sáng, trong sáng, sáng suốt, là tuệ giác; Châu có nghĩa là viên ngọc quý báu. Vậy Minh Châu có nghĩa là viên ngọc quý báu và trong sáng, là pháp tự của
Hòa thượng, người có viên ngọc Phật pháp đích thực để chỉ đường an vui và hạnh
phúc cho đạo pháp và cho dân tộc; người có khả năng trao truyền, tiếp nối, và
thắp sáng lên ngọn đuốc của chánh pháp cho nhiều thế hệ trong hiện tại cũng như
trong tương lai bằng cách phiên dịch các Kinh điển Pali và Hán văn ra Việt văn, mở trường dạy học, và
đào tạo con người tài đức để làm lợi ích cho gia đình, cho học đường, và cho xã
hội.
Minh Châu
is a noun of two Sino-Vietnamese words; Minh is an adjective which modifies the noun Châu means bright, clear-sighted, perspicacious, insightful; Châu means precious gem. Thus, Minh Châu means
the precious and clear-sighted gem, the Dharma identity of the Most
Venerable One, who has the gem of the authentic Buddha Dharma to show the peaceful
and happy path to the Dharma and to the people; who has the ability to
transmit, connect, and to light up the torch of the Dharma for many generations
in the present as well as in the future by translating the Pali and Chinese Sutras
into Vietnamese, by opening school to teach and to train talented and virtuous
people to be beneficial to family, to school, and to society.
Viên Dung là danh từ của hai âm Hán Việt;
Viên là tính từ bổn nghĩa cho danh từ
Châu có nghĩa là tròn đầy, hoàn hảo;
Dung có nghĩa là dung nhiếp, dung
hòa, dung nạp, tóm thâu, khoan dung, rộng lượng, bao la... Vậy Viên Dung có nghĩa là dung thông và
hoàn hảo về nhiều khía cạnh tài và đức, là pháp hiệu của Hòa thượng, người
có khả năng thẩm thấu và dung nhiếp sự hòa hợp giữa Tăng đoàn, giữa Nam và Bắc
tông, và giữa các Kinh điển Hán, Phạn, và Pali.
Viên Dung
is a Sino-Vietnamese word, private noun; Viên
is an adjective which modifies the noun Dung means fully round, perfect; Dung
means collection, harmonization, acceptability, forgiveness,
generosity, capaciousness, etc. Thus, Viên
Dung means collection and perfection for aspects of talent and virtue, the Dharma title of the Most Venerable One, who has the ability to
permeate and to spread harmony among the Sangha, between Southern and Northern
Buddhism, and among Chinese, Sanskrit, and Pali Sutras.
Thật
vậy, Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung, vị Sư – Thầy tài đức vẹn toàn, là chủ đề chính của bài viết này, mang nhiều ý
nghĩa đặc thù và quan trọng, có các mối tương quan và tương duyên với nhau rất
mật thiết, ba là một, một là ba, và là tất cả, cụ thể chỉ cho Trưởng lão Hòa thượng với đạo hiệu
thường dùng hằng ngày là ở phía trước chữ Minh
ở phía sau chữ Châu. (Trong nhà
Thiền, đây là cách gọi trang trọng, dành cho một người được cung kính và quý
trọng).
Indeed,
Tâm Trí, Minh Châu, Viên Dung, the perfectly talented and virtuous Monk –
Teacher, the main title of this writing, which implies many specific and
important meanings. Those names, which has interdependent relationships with
one another very closely, three becomes one, one becomes three, and all, together,
are concretely intended for the Most
Venerably Elder One with daily frequently used the alternative monastic name
being in the front of the word Minh and
at the back of the word Châu. (At the Buddhist Temple, this is how to solemnly call, is intended for a respected
and esteemed person).
Chúng
ta biết rằng ban đầu, với chí nguyện xuất gia dũng mãnh và nhờ vào sự tu học
Phật pháp tại Việt Nam, Hòa thượng Thích Minh Châu trở thành vị xuất sĩ và mặt
y hậu phù hợp theo theo truyền
thống Phật giáo Bắc tông từ năm 1946 tới năm 1952. Sau
đó, Hòa thượng có đủ duyên lành xuất dương du học tại đại học Colombo, Tích Lan
(Sri Lanka) năm 1952–1955 và tại đại học Bihar, Ấn Độ năm 1956–1963. Từ những
năm đó cho tới khi viên tịch năm 2012, thầy mặc y hậu phù hợp theo truyền thống
Phật giáo Nam tông, và am hiểu Kinh điển và hệ tư tưởng Phật giáo Nam và Bắc
truyền.
We
know that first of all, with his aspiration to strongly leave home for a
monastic life and by cultivating and learning the Buddha Dharma in Vietnam, the
Most Venerable Thích Minh Châu became a monk wearing his brown, pale green, and
yellow robes in accordance with the Northern Buddhist tradition from the year
1946 to the year 1952. Afterward, he had the good opportunity to go abroad to
study at Colombo University in Sri Lanka in 1952 – 1955 and at Bihar University
in India in 1956 – 1963. From those years until passing away in 2012, he wore
saffron yellow robes in accordance with the Southern Buddhist tradition and was
conversant with the Sutras and systems of Theravāda and Mahāyāna Buddhist
thoughts.
Theo
triết lý Phật giáo, chúng ta được nghe và biết rằng “chiếc áo không làm nên
nhà tu, nhưng nhà tu không thể không có chiếc áo này.” Trong ngữ cảnh này, “nhà tu” chỉ cho hành giả, cụ thể là Hòa
thượng; dù là Nam truyền hay Bắc truyền, “chiếc áo” của hai truyền thống đó chỉ
là phương tiện vật chất dùng để che thân. Nghĩa bóng của nó có nghĩa là an lạc
và giải thoát, là “ruộng phước tốt nhất”
cho các hàng Phật tử tại gia và xuất gia có dịp gieo, trồng, duy trì, và vâng
giữ Phật pháp.
According
to Buddhist philosophy, we have been heard and known that “a robe cannot become a
monastic, but the monastic cannot but have this robe.” In this context, “the
monastic” is indicated for the practitioner, namely the Most Venerable One;
whether Southern Buddhist tradition or Northern Buddhist tradition, the “robe”
of those two traditions is only a means of materials used to cover his or her
body. Its figurative sense means peacefulness and deliverance, a “rice paddy of the best merit” for lay
people and monastics to have a chance to sow, plant, uphold, and to comply with
the Buddha Dharma.
Xuyên
qua việc tu tập, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày
của mình, vị hành giả dùng chiếc áo làm phương tiện cần thiết để bảo vệ thân
thể ấm áp khỏi bị gió, lạnh, và khỏi bị côn trùng cắn chích. Nhờ thực tập Phật
pháp tinh chuyên như vậy, nên hành giả có thể gặt hái những hoa trái an vui và
hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Through
cultivation, practice, and applying the Buddha Dharma into his or her daily
life, the practitioner uses the robe to make means necessary to protect his or
her warm body from the wind, the cold, and from the stings and bites of
insects. Thanks to practicing the Buddha Dharma diligently like this, the
practitioner can gain followers and fruits of peaceful joy and happiness right
here and right now in the present life.
Như vậy, qua những gì thảo luận ở trên, chúng ta biết Hòa thượng có thể được gọi là vị Sư và cũng có thể được gọi là vị Thầy, gọi chung là vị Sư Thầy xuất chúng. Trong chủ đề của bài viết này, chúng ta bắt gặp hai từ “Sư Thầy.” “Sư” là vị xuất gia hay vị xuất sĩ. Trong cách sử dụng tiếng Hán Việt, từ “Sư” là danh từ chung thường chỉ cho các vị Sư mặc y hậu theo các truyền thống của các nước Phật giáo Nam truyền như Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan…, và Việt Nam; “Thầy” cũng là một vị xuất gia hay vị xuất sĩ. Gọi theo tiếng Việt, “Thầy” cũng là một danh từ chung thường chỉ cho các vị Thầy mặc y hậu theo các nước Phật giáo Bắc truyền như Nhật Bản, Nam Hàn, Trung Quốc…, và Việt Nam. Thuật ngữ “Thầy” cũng có nghĩa là vị cư sĩ.
Thus, through the above discussed things, we know the Most Venerable One can be called the Monastic and can also be called the Teacher, generally called the prominent Monastic Teacher. In the title of this writing, we encounter the two words “Monastic and Teacher.” The “Monastic” is the monk or the nun. In Sino-Vietnamese use, the “Monastic” is a common noun referring to the Monastics who wear saffron yellow robes in accordance with the traditions of Southern Buddhist countries such as Burma, Thailand, Sri Lanka, etc., and Vietnam; the “Teacher” is also the monk or the nun. In Vietnamese use, the “Teacher” is also a common noun frequently indicated for the teachers who wear brown, pale green, pale gray, saffron yellow robes in accordance with the traditions of Northern Buddhist countries such as Japan, South Korea, China, etc., and Vietnam. The term “Teacher” also may refer to a lay person or lay teacher.
Vậy, ở Việt Nam có cả “Sư và Thầy,” ở Hòa thượng cũng có cả “Sư và Thầy,” ở chính người cũng có cả việc am hiểu Kinh điển và sự hòa hợp giữa Nam và Bắc tông, và ở chính ngài cũng có cả an vui, hạnh phúc, giác ngộ, và giải thoát. Trong bài viết này, “Sư và Thầy” đi chung với nhau dùng để chỉ cho vị xuất Sĩ, cụ thể là Hòa thượng Thích Minh Châu, vị Sư Thầy quý kính, biểu hiện trọn vẹn các ý nghĩa trên.
Thus, in Vietnam there are both “the Monastic and the Teacher,” in the Most Venerable One there are also both the “Monastic and the Teacher,” in himself there are also both the proficiency of the Sutras and harmony between Theravāda and Mahāyāna Buddhism, and within him there are also peaceful joy, happiness, enlightenment, and deliverance. In this writing, “the Monastic and the Teacher” that go together are used to indicate the Monk, namely the Most Venerable Thích Minh Châu, the estimably Monastic Teacher, embodying the above integral meanings.
Đọc và viết xong bài thảo luận trên, chúng
ta biết cái tâm hiện ra cái tướng. Pháp danh, pháp tự, và pháp hiệu của thầy đều
biểu hiện ra cái tài và cái đức trọn vẹn. Người thời nay hiếm có người theo kịp thầy.
Having read and known the above
discussion, we know the heart manifests the signs. His Dharma name, Dharma
character, and Dharma title reflect his perfect talent and virtue. The
present people seldom have anyone to keep pace with him.
Thực vậy, Hòa thượng Thích Minh Châu là vị Sư Thầy tài – đức toàn vẹn. Với ánh sáng giáo dục và đào tạo con người tài đức, thầy có khả năng trao truyền và thắp sáng lên các ngọn đuốc của chánh pháp cho nhiều thế hệ thành công trong hiện tại và mai sau. Càng thắp sáng lên ngọn đuốc của chánh pháp, thì ánh sáng tuệ giác của thầy càng chiếu tỏa trong không gian và thời gian, trong tự thân, trong tha nhân, trong Tăng đoàn, gia đình, học đường, và trong xã hội.
Indeed, the Most Venerable Thích Minh
Châu is the perfectly talented and virtuous Monastic Teacher. With the light of
education and training of talented and virtuous people, he has the ability to
impart and to light up the torches of the Dharma for the many succeeding generations
in the present and in the future. The more the torch of the Dharma is lighted
up, the more his insightful light is brightened in space and time, in oneself,
in others, in the Sangha, family, school, and in society.
Để tưởng nhớ và học theo tài năng và đức hạnh
của thầy, những Kinh điển của thầy dịch, biên soạn, và viết lách, những chương
trình giáo dục của các trường Bồ-đề và đại học, và những chương trình giáo dục
thanh thiếu niên, chúng ta có thể đem ra giảng dạy, áp dụng, và thực hành vào
trong các học đường hiện tại, đặc biệt là áp dụng và thực hành chúng thích hợp
với cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Thành kính đảnh lễ Hòa thượng Thích Minh Châu, vị Sư Thầy thân
thương và quý kính!
To commemorate and to follow his talent
and virtue, the Sutras translated, compiled, and written by him, the education
curricula of Bodhi schools and Vietnam Buddhist Universities, and the education
curricula of youth and teenagers, we can bring them out to teach, to apply, and
to practice in the present schools, especially apply and practice them to
accord with in our daily lives.
Respectfully pay homage to the Most Venerable Thích Minh Châu, the
dear and estimable Monastic Teacher!
Thích Trừng Sỹ
Mời bấm vào xem movie
(Please click to see the slideshow movie)
[1] Năm Điều Đạo Đức gồm có 1. Nuôi dưỡng tâm từ
bi đối với chúng sinh, 2. Phát khởi tâm bố thí, 3. Xây dựng hạnh phúc gia đình,
vợ chồng và con cái, 4. Giữ vững niềm tin, chân thật, và uy tín cho tự thân và
cho đoàn thể, 5. Nuôi dưỡng trí tuệ bằng cách biết thương mình và thương người.
[2] The Five Virtuous Trainings
consist of 1. Nourishing the heart of loving-kindness and compassion toward
living beings, 2. Developing the heart of alms-giving, 3. Building happiness of
family, husband, wife, and children, 4. Taking hold of confidence, truth, and
prestige for oneself and for delegation, 5. Nurturing wisdom by knowing how to
love one and how to love others.