Cách đây vài tuần, sau đại lễ Phật Đản, tại thành phố
Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, có cô Singer Beth hướng dẫn khoảng 25 vị
học sinh trung học lên Chùa Cổ Lâm để giao lưu tư tưởng và tìm hiểu thêm về Phật
pháp. Trong số các sinh viên ấy, có một vài em có cha mẹ đi cùng. Singer Beth, một
đồng giáo sĩ cao cấp Do Thái (a co-senior Rabbi) của Đền Beth Am, là một giáo
viên trường trung học và cao đẳng tại Seattle. Mặc đầu là một đạo sĩ Do Thái,
nhưng cô rất thích học và tham khảo Phật pháp. Cô nói, “Những ai có đủ duyên tiếp cận, học
hỏi, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình,
thì họ có khả năng đem lại hoa trái an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha
nhân ngay trong cuộc sống hiện tại.”
Some weeks ago, after Vesak day, in the
City of Seattle, Washington State, United States of America, Ms. Singer Beth led
and accompanied about 25 junior high school students to Cổ Lâm Temple in order
to exchange thoughts and to learn more about the Buddha Dharma. Among those
students, there were several students accompanied by their parents. Singer Beth,
a co-senior Rabbi of Temple Beth Am, is a teacher of high school and college in
Seattle. Although she is the Rabbi, she very much enjoys learning and
consulting the Buddha Dharma. She said, “Those who have enough good opportunity to
approach, learn about, practice, and to apply the Buddha Dharma in their daily
lives have the ability to bring flowers and fruits of joy and happiness to
themselves and to others right in the present life.”
Kính
chào quý thầy cô giáo, phụ huynh, và các em học sinh!
Hôm nay, với đầy đủ duyên lành, chúng ta có mặt tại
Chùa Cổ Lâm để học hỏi và giao lưu Phật pháp. Trong buổi giao lưu này, thay mặt
các huynh đệ trong Chùa, mình, đạo hiệu thích Trừng Sỹ, một vị xuất sĩ tại Chùa
này, sẽ dạy và hướng dẫn các bạn sinh viên cách
chào hỏi trong Phật pháp, cách đọc ba
câu nương tựa[1] bằng
tiếng Pāli
và tiếng Anh, cách hiểu và thực hành năm điều tỉnh thức. Cuối cùng, mình
sẽ hướng dẫn ngắn gọn cho các bạn cách hát bài hát hạnh phúc trong thiền tập.
Dear teachers, parents, and students!
Today, with the sufficiency of good opportunity, we are present at Cổ Lâm Temple to learn about and to exchange the Buddha’s teachings.
During this exchange, on behalf of Dharma Brothers and Sisters at the Temple, I,
Dharma name is Venerable Thích Trừng Sỹ, a monk at this Temple, will teach and instruct
you students how to greet each other in
the Buddha Dharma, how to read the three
refuges[2] in
Pāli and
in English, how to understand and to practice the five awakening things.
Finally, I will briefly instruct you how to sing a happiness song in
meditation practice.
A.
Cách chào hỏi trong Phật pháp
Trước tiên, thầy hướng dẫn các
em cách chắp tay xá chào với nhau. Ý nghĩa của chắp tay có nghĩa là “Sen búp xem tặng người, một vị Phật
tương lai.” Khi hai người chắp tay xá chào với nhau, việc chắp tay đó có
nghĩa là cả hai người đều có chung ước muốn tưới tẩm các hạt giống Phật pháp, an
vui, và hạnh phúc nẩy mần và vươn lên tươi tốt trong tâm thức của mỗi người.
A. How to greet in the Buddha Dharma
A. How to greet in the Buddha Dharma
First, I would like to instruct you
how to join your palms to bow together. The meanings of joining one’s palms
mean “A lotus for you, a
Buddha-to-be.” When both persons join their palms and bow together, the
join of palms means that both persons have the same wishes to water the seeds
of the Buddha Dharma, joy, and happiness to sprout and to rise up freshly in everyone’s
mind.
B. Cách
đọc ba câu Nương Tựa
B. 1. .
(Xin Mời Xem Movie.
Click to see Movie)
Buddha là
một danh từ; trong tiếng Việt, chúng ta gọi là “Phật” – Bậc tỉnh thức hay Bậc
giác ngộ. Sarana là một danh từ có
nghĩa là quy y, nương tựa, hay quay về. Gaccha(ti)
là một động từ có nghĩa là đến, đi đến, tới, đi tới. Trong tiếng Pāli, cả 2 danh từ Buddha(m) và Sarana(m) là đối cách hay cách thứ
hai làm tân ngữ cho động từ Gacchati. “Tôi
hay con” (Aham) là đại từ của ngôi
thứ nhất số ít được hiểu ngầm là chủ ngữ của câu Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi. Mi
trong động từ gacchāmi. được chia theo đại từ Aham.[3]
B. How
to read three Refuges
B. 1.
Buddha is a noun; in
Vietnamese, we say “Phật” – the Awakened One or the Enlightened One. Sarana, which is a noun, means refuge or
return. Gaccha(ti), which is a verb,
means go or go to. In Pāli, both Buddha(m) and Sarana(m) that
are the accusative or the second accusative make objects of the verb Gacchati. “I” (Aham) is a pronoun of the first person singular which is tacitly
understood to be the subject of the sentence . Mi in the verb gacch is divided according to the pronoun Aham.[4]
Vậy, có nghĩa là con về nương tựa Phật, Người
chỉ con đường hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho pháp giới chúng sanh trên khắp
hành tinh này. Hoặc là, nương tựa Phật trong con, con đang có hướng đi chánh
niệm, vững chãi, và sáng suốt cho con trong cuộc đời.
Thus, means that I take refuge in
the Buddha, who has shown the path of peace, joyfulness, and happiness to living
things and living beings all over the planet. Or, taking refuge in the Buddha
in my heart, I am on the path of going mindfully, firmly, and brightly for me
in life.
Phật (Buddha) có
nghĩa là người tỉnh thức và giác ngộ, sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác, vững
chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc cho số đông. Trong Thanh Tịnh Đạo luận
(Visuddhimagga, the Path of Purification),[5]
Phật có 10 danh hiệu đặc thù được viết như sau:
The Buddha means the
Awakened and Enlightenmend One, who lives His life of mindfulness and
awareness, steadiness and freedom, peace and happiness for the many. In the
Path of Purification (Visuddhimagga),[6] the Buddha
has the ten noble titles written as follows:
“Đức Phật, bậc Thầy lãnh đạo tâm linh an bình và cao thượng của chúng
con,
là Bậc xứng đáng nhất để được cúng dường,
là Bậc hiểu biết và thương yêu,
là Bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác,
là Bậc đạt được an vui và giải thoát toàn vẹn,
là Bậc hiểu thấu thế gian,
là Bậc có khả năng điều phục được con người,
là Bậc Thầy của cả hai giới thiên và nhân,
là Bậc giác ngộ và tỉnh thức tròn đầy,
và là Bậc được thế gian tôn sùng và tôn kính.”
“The Buddha, who is the leading Teacher of our peaceful and noble spirituality,
“The Buddha, who is the leading Teacher of our peaceful and noble spirituality,
is the most worthy One to be made offerings,
is the One of understanding and love,
is the One having enough virtue of conduct and insight,
is the One attaining perfectly peaceful joyfulness and freedom,
is the One comprehending the world,
is the One having the ability to subdue people,
is the spiritual Master of both gods and humans,
is the fully-enlightened and awakened One,
and is the One to be revered and respected by the world.”
Câu kệ tán dương đức Phật như sau:
“Phật
là Thầy chỉ đạo,
Bậc
tỉnh thức vẹn toàn,
Tướng
tốt đoan trang,
A verse of praising the
Buddha as follows:
“The Buddha, the Teacher,
showing the peaceful way,
Being the
Fully-Awakened One,
With good,
noble, respectable signs,
Dhamma là
một danh từ có nghĩa là lời Phật dạy. Sarana
là một danh từ có nghĩa là quy y, nương tựa, hay quay về. Gaccha(ti) là một động từ có nghĩa là đến,
đi đến, tới, đi tới. Trong tiếng Pāli, cả 2 danh từ Dhamma(m) và Sarana(m) là đối cách hay cách thứ
hai làm tân ngữ cho động từ Gacchati. “Tôi
hay con” (Aham) là đại từ của ngôi
thứ nhất số ít được hiểu ngầm là chủ ngữ của câu Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi. Mi
trong động từ gacchāmi. được chia theo đại từ Aham.[9]
Dhamma,
which
is a noun, means the Buddha’s teachings. Sarana,
which is a noun, means refuge or return. Gaccha(ti), which is a verb, means go or go to. In Pāli, both Dhamma(m) and Sarana(m) that are the accusative or the
second accusative make objects of the verb Gacchati.
“I” (Aham) is a pronoun of the first
person singular which is tacitly understood to be the subject of the sentence Dhammaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi. Mi in the verb gacchāmi is divided according to the pronoun Aham.[10]
Vậy Dhammaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi có
nghĩa là con về nương tựa Pháp, con đường của hòa bình, an vui, và
hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại. Hoặc là, nương tựa Pháp
trong con, con đang có hướng đi chánh niệm, vững chãi, và sáng suốt cho con
trong cuộc đời.
Thus, Dhammaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi means
that I take refuge in the Dhamma, the path of peace, joyfulness, and happiness for
the many right in the present life. Or, taking refuge in the Dhamma in my
heart, I am on the path of going mindfully, firmly, and brightly for me in
life.
Pháp (Dhamma) có
nhiều nghĩa như quy luật của vũ trụ, quy luật tự nhiên, luật nhân quả, hiện
tượng … Trong bài viết này, pháp được thảo luận ở đây được hiểu là con đường Tam
Vô Lậu Học (Giới, Định, và Tuệ) hay
con đường thánh có tám chi phần gồm có: “Chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, và chánh định.”
The Dhamma has many meanings such as the law of the
universe, that of nature, that of cause and effect, that of phenomenon, etc. In
this writing, the Dhamma discussed here is understood as the path of Three Passionless
Studies (Virute, Concentration, and Wisdom) or the noble path with the eight
factors including: “Right view, right
thought, right speech, right action, right livelihood, right effort, right
mindfulness, and right concentration.”
Thật ra, hai con đường này chỉ là một con đường mà thôi, đó là con đường hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực cho số đông. Con đường này có nhiều mối tương quan và tương duyên với các giáo lý khác của Phật giáo, của các học thuyết khác và các triết lý khác ở đời. Con đường này được hiểu theo ý nghĩa bóng có nghĩa là khi chúng ta áp dụng và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình, thì chúng ta có khả năng góp phần đem lại an vui và hạnh phúc cho gia đình, cho quê hương, cho đất nước, và cho cả thế giới.
Actually, two these paths are only one path, namely the
path of authentic peace, joyfulness, and happiness for the many. This path has
many interdependent relations with other tenets of Buddhism, those of other
theories and philosophies in the world. This path, which is understood
according to the figurative sense, means that as we apply and practice the
Buddha Dhamma in our daily lives, we have the ability to contribute to bringing
peacefulness and happiness to the family, to the homeland, to the nation, and
to the world.
Trong Thanh Tịnh Đạo luận (Visuddhimagga, the Path of Purification),[11]
Pháp có những tính đặc thù được định nghĩa như sau:
“Pháp được đức Thế Tôn khéo thuyết giảng,
rất thiết thực hiện tại,
có giá trị vượt thoát thời gian,
có khả năng chuyển hóa thân tâm,
có khả năng dập tắt các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến, v. v...
Nương vào Phật pháp, người trí nào cũng có thể tự mình tu tập,
thông đạt giáo pháp, đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu, đến
để thực hành,
và đến để thưởng thức những hoa trái an vui và giải thoát
ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.”
In the Path of
Purification (Visuddhimagga),[12] the
Dhamma has the ten noble titles defined as follows:
“The Dharma that is well preached by the
World-Honored One
is very practical in the present,
has value beyond time,
has the ability to transform one’s body and mind,
has the ability to extinguish the defilements of desire, anger,
delusion, pride, doubt, wrong view, etc.
Taking refuge in the Buddha Dhamma, a wise person, who can also
cultivate oneself through practice
comprehends the Dhamma, comes and sees, comes and hears, comes and
understands, comes and practices,
comes and enjoys flowers and fruits of peacefulness and liberation
Câu kệ tán dương giáo pháp như sau:
“Pháp
là con đường sáng,
Dẫn
người thoát cõi mê,
Đưa
con trở về,
A verse of praising the Dhamma as follows:
“The
Dhamma that is the bright path,
Leads people
to escape from a realm of delusion,
Takes
me back to my pure mind,
B. 3. Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi
Sangha là
một danh từ chung có nghĩa là đệ tử Phật, tức là Tăng thân, Tăng nhãn, Tăng
đoàn, Cộng đồng, Đoàn thể gồm bốn người trở lên, etc. Sarana là một danh từ có nghĩa là quy y, nương tựa, hay quay về. Gaccha(ti) là một động từ có nghĩa là
đến, đi đến, tới, đi tới. Trong tiếng Pāli, cả 2 danh từ Sangha(m) và Sarana(m) là đối cách hay cách thứ
hai làm tân ngữ cho động từ Gacchati. “Tôi
hay con” (Aham) là đại từ của ngôi
thứ nhất số ít được hiểu ngầm là chủ ngữ của câu Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi. Mi
trong động từ gacchāmi. được chia theo đại từ Aham.[15]
B. 3. Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi
Sangha,
that
is a common noun, means the Buddha’s disciples, that is, the Sangha body,
Sangha eye, the Community, the Congregation consisting of four people or more. Sarana, which is a noun, means refuge or
return. Gaccha(ti), which is a verb,
means go or go to. In Pāli, both Sangha(m) and Sarana(m) that
are the accusative or the second accusative make objects of the verb Gacchati. “I” (Aham) is a pronoun of the first person singular which is tacitly
understood to be the subject of the sentence Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi. Mi in the verb gacchāmi is divided according to the pronoun Aham.[16]
Vậy, Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi có
nghĩa là con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người hòa bình
nguyện sống cuộc đời tỉnh thức cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống
hiện tại. Hoặc là, nương tựa Tăng trong con, con đang có hướng tu tập, an vui
và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời.
Thus, Saṅghaṃ
saraṇaṃ
gacchāmi means
that I take refuge in the Sangha, the Congregation of peaceful people, who vow
to live their awakening lives for themselves and for others right in the present
life. Or, taking refuge in the Sangha in my heart, I am taking the direction of
cultivation, peacefulness and happiness for myself and for others right in this
life.
Tăng (Sangha) được
thảo luận ở đây có liên quan tới Đoàn thể tu tập, an lạc, hòa hợp, và đoàn kết
của những người xuất sĩ hoặc đoàn thể của những người cư sĩ. Cả hai đoàn thể
này bổ sung và hỗ trợ với nhau như hình với bóng, như nước với sóng, và cùng
nhau đưa Phật pháp đi về tương lai tươi sáng và vững vàng.
Sangha as discussed here relates to the Community of
cultivation, peacefulness, harmony, and solidarity of monastics or the
Community of lay Buddhists. Both of these Communities complement and support one
another as image and its shadow, as water and its wave, and together bring Buddhism
to the future brightly and steadily.
Trong Thanh Tịnh Đạo luận (Visuddhimagga, the Path of Purification),[17] Tăng
có những tính đặc thù được định nghĩa như sau:
“Tăng thân của đức
Thế Tôn,
Là đoàn thể mà chúng con
đang quay về nương tựa
Là đoàn thể đang đi trên con
đường tốt đẹp
Là đoàn thể đang đi trên con
đường chính trực
Là đoàn thể đang đi trên con
đường chân chánh
Là đoàn thể đang đi trên
đường thích hợp
Là đoàn thể đang đi trên
đường thánh thiện
Là đoàn thể gồm thâu bốn
đôi và tám bậc thánh quả[18]
Là đoàn thể xứng đáng được
cúng dường,
Là đoàn thể xứng đáng được
quy kính,
Là đoàn thể xứng đáng được
tôn sùng
Là đoàn thể xứng đáng được
ngưỡng mộ
In the Path of
Purification (Visuddhimagga),[20] the
Sangha has the ten noble titles defined as follows:
“Sangha/kaya of the World-Honored One
That are the Congregation in whom we have turned back to take
refuge
Are the Congregation having traveled on the good way
Are the Congregation having traveled on the straight way
Are the Congregation having traveled on the true way
Are the Congregation having traveled on the proper way
Are the Congregation having traveled on the holy way
Are the Congregation having consisted of the four pairs and the
eight fruitions of holy persons”[21]
Are the worthy Congregation having been made offerings
Are the worthy Congregation having been made offerings
Are the worthy Congregation having been
respected
Are the worthy Congregation having been revered
Are the worthy Congregation having been admired
Are the most precious virtue field in the world.”[22]
Tăng được viết thành kệ như sau:
“Tăng
là Đoàn thể đẹp,
Cùng
đi trên đường vui,
Tu
tập giải thoát,
Làm
an lạc cuộc đời.”[23]
Câu kệ tán dương Tăng như sau:
A verse of praising the Sangha as follows:
“The
Sangha that are the beautiful Community
Together
travel on the happy path
Cultivate
and liberate afflictions
Qua những gì được thảo
luận trên đây, chúng ta thấy Tam Bảo (Phật, Pháp, và Tăng) được dụ như đèn tuệ
giác soi sáng cho chúng con đi trên con đường giác ngộ và giải thoát tâm linh.
Những an có đủ duyên tu, học, hành trì, và ứng dụng Tam Bảo vào trong đời sống
hằng ngày một cách thiết thực, thì hiện tại họ sống rất an lạc, và tương lai họ
sống rất an vui.
“Đệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện tu học tinh cần
Through what is discussed above, we see
the Three Jewels (the Buddha, the Dhamma, and the Sangha) exemplified as the lamps
of insight illuminating our travel on the path of spiritual enlightenment and
deliverance. If someone has enough good opportunity to cultivate, to learn, to practice,
and to apply the Triple Gem in the daily life practically, then presently they
live very peacefully, and prospectively they live very joyously.
“Disciples who take refuge in the Triple Gem
On the way of learning the Dharma
Know the Triple Gem of their own hearts
Vow to cultivate and practice diligently
Bên cạnh giáo pháp của đức Phật, chúng
ta hiểu thêm Năm Điều Tỉnh Thức mà nội dung của nó bao gồm Năm Giới hay Năm Điều
Đạo Đức dưới đây như sau:
Side by side with the Dharma of the
Buddha, we understand more the Five Awakening Things, whose contents comprise
the Five Precepts or the Five Virtuous Things below as follows:
C. Năm điều tỉnh thức
Năm điều tỉnh thức được viết ở đây được hiểu là năm giới, là giáo
pháp, là lời Phật dạy, và là hướng đi trong sáng và vững chãi cho nhân loại và
xã hội ngày nay. Thật ra, giáo pháp được đề cập ở trên bao gồm Năm Giới và
những lời dạy khác. Tuy nhiên, để người xem, người đọc, và người học dễ hiểu,
dễ nắm bắt, dễ ứng dụng, và dễ thực hành Năm Điều Tỉnh Thức, người viết trình
bày tóm lượt như sau:
C. The five
awakening trainings
The five awakening trainings written here are understood as
the five precepts, the Dharma, the teachings of the Buddha, and the direction
of going clearly and stably to humankind and society today. In fact, the
above-mentioned Dharma comprises the Five Precepts and other teachings. However,
in order that viewers, readers, and learners may easily understand, easily
grasp, easily apply, and easily practice the Five Awakening Trainings, the
writer presents the following summary:
C. 1. Điều
tỉnh thức thứ nhất
“Điều tỉnh thức thứ nhất là chúng ta tôn trọng sự sống của muôn loài
chúng sinh, trong đó có con người, con vật, thậm chí có cỏ cây, hoa lá, đất đá…
Chúng ta không sát hại, chặt đốt và phá phách rừng núi, sông ngòi, ao hồ và
biển cả... Thực tập điều tỉnh thức thứ nhất có nghĩa là chúng ta ý thức chăm
sóc nuôi dưỡng tình thương yêu đối với muôn loài, chúng ta góp phần bảo vệ môi
sinh và sự sống của muôn loài, và góp phần xây dựng một hành tinh xanh, sạch,
và đẹp.
C. 1. The first awakening training
“The first awakening training is that we
respect all living beings’ lives, including humans, animals, even plants,
trees, flowers, leaves, soils, rocks, etc. We do not kill, chop, burn, and
destroy forests, mountains, rivers, streams, ponds, lakes, the open sea, etc.
Practicing the first awakening thing means we are aware to take care to nurture
our love toward all living beings, we contribute to protecting the environment
and the lives of living things and living beings, and contribute to building the
green, clean and beautiful planet.
C. 2. Điều
tỉnh thức thứ hai
Điều tỉnh thức thứ hai là chúng ta tôn trọng tài sản, di sản,
khoáng sản và lâm sản của tư và của công, trong đó có vàng bạc, đá quý, cây
kim, ngọn cỏ, chuông, mõ, gỗ súc…, chúng ta không trộm cắp và không chiếm đoạt
của cải của người khác. Thực tập điều tỉnh thức thứ hai có nghĩa là chúng ta
chúng ta ý thức rải tâm bố thí đối với những người bần cùng, neo đơn và nghèo
khổ, chúng ta khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa phải để các thế hệ con
cháu của chúng ta có thể tiếp tục nương nhờ, chúng ta góp phần bảo vệ, duy trì
và phát triển đức hạnh, giàu sang và hưng thịnh cho gia đình, cho xã hội, và
cho đất nước.
C. 2. The
second awakening training
The second awakening training is
that we respect private and public assets, heritages, minerals, and forest
products, including gold, silver, gems, sewing needles, blades of grass, bells,
wooden bells, timbers, etc. We do not steal and do not appropriate others’
belongings. Practicing the second awakening training means we are aware to
spread our hearts of alms-giving toward the poor, the lonely, and the needy. We
exploit the sources of the natural resources in moderation so that generations
of our descendants can continue to depend on them, and we contribute to
conserving, maintaining, and developing virtue, wealth and prosperity for our
family, for society, and for the country.
C. 3. Điều
tỉnh thức thứ ba
Điều tỉnh thức thứ ba là chúng ta tôn trọng tính toàn vẹn của
gia đình, trong đó có vợ chồng và con cái. Chúng ta không lạm dụng tình dục của
trẻ em, không xâm phạm tiết hạnh của người khác, và chỉ có quan hệ tình dục với
người vợ hoặc người chồng hợp pháp của mình mà thôi.Thực tập điều tỉnh thức thứ
ba có nghĩa là chúng ta ý thức bảo vệ hạnh phúc của cha mẹ, vợ chồng và con
cái; chúng ta góp phần đem lại an lạc, niềm vui và tiếng thơm cho gia đình, cho
dòng họ, cho làng xóm và cho cả xã hội.
Để tiếp nối dòng dõi Tông đường, người cư sĩ nên có vợ, có
chồng, có con, và có cháu. Để tiếp nối dòng dõi của các bậc Thánh, để kế thừa,
truyền thừa, và thắp sáng lên ngọn đuốc của chánh pháp, thắp sáng lên ngọn đuốc
của tình thương, người xuất sĩ phải dành nhiều thời gian để lo việc tu học,
hoằng pháp và giúp đỡ nhiều người. Những ai chọn đời sống xuất gia để sống đời
sống an tịnh không sao lãng, thì họ không bị gia đình và con cái ràng buộc.
C. 3. The third awakening training
The third
awakening training is that we respect the integrity of the family, including
spouses and children. We do not sexually abuse children, do not violate other
people’s chastity, and only have sexual relations with our lawful spouse.
Practicing the third awakening training means that we are aware to protect the
happiness of our parents, spouses and children; we contribute to bringing
peacefulness, feelings of joy and good repute to our family, relatives, village
and society.
In order to connect the lineage
of the clan temple, lay Buddhists should marry and have children and
grandchildren. In order to continue the lineage of the sages and to inherit,
descend, light up the torch of the Dharma and light up that of love, monastic
Buddhists must spare much time to take care of cultivation, study, meditation,
the spread of the Dharma and the help of many people. Those who take up the
monastic life in order to live a calm and pure life must not be bound by ties
to family and children.
C. 4. Điều
tỉnh thức thứ tư
Điều tỉnh thức thứ tư là chúng ta tôn trọng sự thật và quý
kính mọi người, trong đó có Ông bà, cha mẹ, thầy, bạn… Chúng ta không nói dối,
không nói thêu dệt,[27]không nói đâm thọc,[28]không nói lời thô ác, không nói những
tin mập mờ và không rõ ràng, không nói những lời mong cầu và lợi dưỡng, không
nói những lời gây chia rẽ, mất hoà hợp, và mất đoàn kết[29]…
Thực tập điều tỉnh thức thứ tư có nghĩa là chúng ta ý thức
nói những lời chân thật, chân chánh, những lời nói tin tưởng, hoà hợp, hoà giải
và hoà nhã, những lời nói từ ái, dịu ngọt, dễ nghe và dễ thương, những lời nói
có giá trị hữu ích xây dựng và đem lại niềm tin, uy tín, hoà hợp, đoàn kết, và
tình huynh đệ đích thực cho tự thân, cho tha nhân, cho gia đình, cho dòng họ,
và cho đoàn thể rộng lớn của thế giới.
C. 4. The
fourth awakening training
The fourth awakening training is
that we respect the truth and have estimable respect for everyone, including
our grandparents, parents, teachers, friends, etc. We do not tell a lie do not
speak an embellishing word,[30]do
not speak a piercing word,[31]do
not speak a rough word, do not speak vague and unclear information, do not
speak aspiring and avaricious words, do not speak words of creating dissension,
discord and disharmony,[32]etc.
Practicing the fourth awakening training
means we are awake to say words of the truth, the right, those of confidence,
harmony, reconciliation and gentleness, those of affection, softness,
sweetness, easiness of hearing, and easiness of love, words of the useful value
of building and bringing faith, prestige, harmony, solidarity, and love of
authentic brotherhood and sisterhood to ourselves, to the others, to family, to
relatives, and to the larger community of the world.
C. 5. Điều tỉnh thức thứ năm
Điều tỉnh thức thứ năm là chúng ta tôn trọng sự an lạc, bình
yên, tịch tĩnh, vững chãi và thảnh thơi cho số đông, trong đó có mình, những
người thân người thương của mình, và người hàng xóm. Chúng ta không uống các
chất say, không hút thuốc lá, không xem phim, internet, tranh, ảnh khiêu dâm và
đồi trụy, đặc biệt là tuyệt đối chúng ta không dùng các chất nha phiến và ma
túy.
Thực tập điều tỉnh thức thứ năm có nghĩa là chúng ta không vi
phạm vào các điều tỉnh thức trên. Chúng ta tu tập các điều tỉnh thức tinh
chuyên và chánh niệm, cẩn thận bảo vệ thân thể khỏe mạnh và tráng kiện, tinh
thần minh mẫn và sáng suốt cho tự thân và cho tha nhân. Chúng ta góp phần xây
dựng và đem lại uy tín và niềm tin an vui và hạnh phúc tới quê hương và xứ sở
của mình.
C. 5. The fifth awakening training
The fifth awakening training is
that we respect peacefulness, tranquility, quietness, steadiness, and
carefreeness for the many, including us, our relatives, beloved ones, and
neighbors. We do not drink alcoholic drinks, do not smoke, do not watch depraved
films, pornographic internet content, pictures, and photographs; especially we
absolutely do not use opium and drugs.
Practicing the fifth awakening
thing means that we do not violate the above awakening things. We who cultivate
the awakening things mindfully are careful to protect our healthy and wholesome
bodies, our perspicacious and lucid minds for ourselves and for others. We contribute
to building and bringing prestige and confidence of peacefulness and happiness to
our native land and homeland.
Nhờ thực tập năm điều tỉnh thức ở trên một cách vững chãi và
thích hợp, chúng ta không những giúp cho tự thân, mà còn giúp cho pháp giới
chúng sanh trên khắp hành tinh này. Chúng ta góp phần bảo vệ môi sinh và môi
trường sống cho trái đất này. Xuyên qua sự thực hành của mình, chúng ta có thể
đem lại những hoa trái an lạc, hạnh phúc, và hòa bình đích thực cho thế giới
nhân loại ngày nay.”[33]
By consistently practicing the
five above awakening things, we not only help ourselves, but also help
innumerable living things and living beings on this planet. We contribute to
protecting the environment and habitat for this earth. Through our practice, we
can bring flowers and fruits of authentic peacefulness, happiness, and peace to
the world of humankind today.”[34]
Trong
Thanh Tịnh Đạo luận (Visuddhimagga, the
Path of Purification),[35] những
điều tỉnh thức hay Giới Pháp có những tính đặc thù được định nghĩa như sau:
In the
Path of Purification (Visuddhimagga),[36] the
awakening things or the Dharma Precepts have the noble titles defined as
follows:
“Giới
pháp của đức Thế Tôn,
Luật nghi (Vinaya) - chánh niệm mà
chúng con đang hành trì
Là giới thân (sīla-kaya) nguyên vẹn,
Là giới thân không bao giờ bị sứt mẻ
Là giới thân không bao giờ bị nhiễm ô
Là giới thân không bao giờ bị tỳ vết
Là giới thân không bao giờ bị hỗn tạp
Là giới thân được người trí khen ngợi
và hâm mộ
Là giới thân có công năng bảo vệ tự
do
Là giới thân đưa tới không sợ hãi
Là giới thân đưa tới chánh định
Là giới thân đưa tới tuệ giác
“The World-Honored One's Dharma Precepts,
the Disciplince (Vinaya) -
right mindfulness we have been practicing
Are the perfect precepts
body
Are the never torn precepts
body
Are the never polluted precepts
body
Are the never blotched
precepts body
Are the never mottled precepts
body
Are the precepts body
praised and admired by the wise
Are the precepts body with
the ability to protect freedom
Are the precepts body
leading us to fearlessness
Are the precepts body
leading us to right concentration
Are the precepts body
leading us to insight
D. Bài
hát hạnh phúc trong thiền tập
Trong lúc áp dụng thiền tập,[39] chúng ta có thể thực tập
thiền ngồi, thiền thở, thiền đi, v. v … Để buổi sinh hoạt hôm nay tăng thêm
phần sinh động, thầy hát bài hát hạnh phúc trước, các em hát theo sau, và sau đó
chúng ta cùng hát với nhau chung một lần nha.
D. Song of happiness in meditation practice
While applying meditation
practice, we can practice sitting meditation, breathing meditation, walking
meditation, etc. In order that a period of activity today increases vividly, I sing
a song of happiness first, you sing it after, and then we sing it together.
“Ta hạnh phúc liền giây phút này,
Lòng đã quyết dứt hết âu lo
Không đi đâu nữa
Có chi để làm
Học buông thả
Sống không vội vàng.
Ta hạnh phúc liền giây phút này,
Lòng đã quyết dứt hết âu lo
Không đi cũng tới
Thấy chi cũng làm
Lòng thanh thản
Sống trong nhẹ nhàng.”[40]
“Happiness is here and now
I have dropped my worries
Nothing to do, nowhere to go
There is no need for hurry
Happiness is here and now
I have dropped my worries
Something to go, somewhere to go
But there is no need for hurry.”[41]
Khi kết thúc buổi giao lưu Phật pháp hôm nay, chúng
tôi hy vọng rằng các em, cha mẹ, và quý thầy cô giáo của các em rất vui mừng
học và giao lưu Phật pháp, và mong muốn áp dụng và thực hành giáo pháp vào
trong đời sống hằng ngày của mình cho tự thân, cho tha nhân, cho gia đình, cho
xã hội, và cho cuộc sống hôm nay và ngày mai.
Thực vậy, qua buổi giao lưu Phật pháp này, mặc dầu
các em chỉ có khoảng một giờ rưỡi đồng hồ giao lưu Phật pháp, song buổi pháp
thoại hôm nay có khả năng nuôi dưỡng và tưới tẩm những hạt giống an lành và
tươi mát vào trong tâm thức của các em và những người khác.
Cuối cùng, thay mặt quý huynh đệ Chùa Cổ Lâm, kính
chúc các em, phụ huynh, và quý thầy cô giáo của các em hiện diện nơi đạo tràng
này an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Kính chúc quý vị an trú và thấm nhuần giáo pháp của
đức Thế Tôn!
As we complete the period of our Buddha Dharma
exchange today, we hope that you - students, your parents, and your teachers,
are very glad to have learnt and exchanged the Buddha Dharma, and are eager to
put it into their daily practice for yourselves, for other people, for society,
and for life today and tomorrow.
Indeed, through the period of this Buddha Dharma
exchange, although we have spent only about one and half hour of watch
exchanging the Buddha Dharma, the period of Dharma talk today has had the
ability to nurture and to water the seeds of peacefulness and freshness into
your minds and others’ minds.
Finally, on behafl of Dharma Brothers and Sisters
at the Cổ Lâm Temple, I would like to wish you, your parents, and your teachers
who are present at this Dharma Center peace and happiness right here and right
now in the present life.
May you dwell peacefully in and permeate the
World-Honored One’s Dharma!
By Thích Trừng Sỹ
Xin Mời Xem Video
(Please click to watch Video)